Theo Điều 3 khoản 7 Bộ luật Lao động năm 2012: “Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.”
Mục đích của việc giải quyết tranh chấp là khôi phục, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động.
Dựa trên khái niệm về tranh chấp lao động, chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm cơ bản của tranh chấp lao động như sau:
Tranh chấp lao động gắn liền với quan hệ lao động
Mối quan hệ này thể hiện ở hai điểm cơ bản: Các bên tranh chấp bao giờ cũng là chủ thể của quan hệ lao động và đối tượng tranh chấp chính là nội dung của quan hệ lao động đó. Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động, có nhiều lý do để các bên không thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được thống nhất ban đầu.
Ví dụ , một trong hai bên chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình , hoặc điều kiện thực hiện hợp đồng, thoả ước đã thay đổi làm cho những quyền và nghĩa vụ đã xác định không còn phù hợp. Hoặc cũng có thể do trình độ xây dựng hợp đồng và sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế dẫn đến các bên không hiểu đúng các qui định, các thoả thuận trong hợp đồng …
Tranh chấp lao động không chỉ bao gồm các tranh chấp về quyền mà còn các tranh chấp về lợi ích
Đối với các tranh chấp khác, thông thường xảy ra khi có sự vi phạm về pháp luật. Tuy nhiên, tranh chấp lao động có thể xảy ra ngay cả khi không có hành vi vi phạm pháp luật.
Bản chất của tranh chấp một phần do sự tác động của quan hệ lao động và sự thay đổi cơ chế thị trường. Để phát sinh được quan hệ lao động bất kỳ là quá trình thỏa thuận, thương lượng giữa các bên.
Tuy nhiên, chính các thỏa thuận đã đạt được, đến một thời gian nào đó không thực hiện được hoặc trở nên không phù hợp nữa. Tổng hợp tất cả các yếu tố lại với nhau thì việc xảy ra tranh chấp lại càng trở nên tất yếu khi quyền, lợi ích của cả hai bên đều bị ảnh hưởng.
Tính chất, mức độ của tranh chấp lao động phụ thuộc vào số lượng, quy mô của người tham gia
Tranh chấp lao động có thể xuất phát từ mâu thuẫn của một cá nhân gọi là tranh chấp cá nhân. Ở loại tranh chấp này, mức độ gây thiệt hại không cao, có thể giải quyết được, không quá phức tạp.
Ở quy mô rộng hơn với sự tham gia của đông đảo người lao động hơn là tranh chấp lao động tập thể. Mức độ phức tạp của tranh chấp được nâng lên. Khi đó không chỉ là một cá nhân, một người lao động nữa mà là cả một tập thể.
Việc giải quyết tranh chấp như thế nào cho ổn thỏa trở nên vô cùng quan trọng. Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể, nó không chỉ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động mà ngay cả người sử dụng lao động cũng bị ảnh hưởng.
Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.
Chủ thể tranh chấp:
Nội dung tranh chấp:
Tính chất tranh chấp:
Đại diện công đoàn:
Ví dụ:
Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm Hoà giải viên lao động và Toà án nhân dân.
Tiến hành hoà giải tại Hòa giải viên lao động
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải, hoà giải viên lao động phải kết thúc việc hoà giải. Phiên họp hoà giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể uỷ quyền cho người khác tham gia phiên họp hoà giải. Hoà giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn các bên thương lượng.
Lưu ý rằng, biên bản có chữ ký của bên tranh chấp có mặt và hoà giải viên lao động. Bản sao biên bản hoà giải thành hoặc hoà giải không thành phải được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản.
Giải quyết tranh chấp tại Toà án
Mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hoà giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo luật định (5 ngày làm việc) mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Như vậy, hoà giải là thủ tục bắt buộc trong trình tự giải quyết tranh chấp lao động, trừ một số trường hợp mà pháp luật cho phép không bắt buộc thông qua thủ tục hoà giải:
Thời hiệu để yêu cầu thực hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là 06 tháng, thời hiệu để yêu cầu Toà án giải quyết là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.
Bộ luật lao động 2019 quy định cơ bản giống với quy định về thẩm quyền, thời hiệu, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân vừa phân tích trên. Tuy nhiên, vẫn có một số điểm mới cần kể đến theo quy định tại Điều 187, 188 và 190 Bộ luật lao động 2019: